CHỦ NGHĨA TƯ BẢN THẾ KỶ 21, CÓ TỰ ĐIỀU CHỈNH?

CHỦ NGHĨA TƯ BẢN THẾ KỶ 21, CÓ TỰ ĐIỀU CHỈNH?

Vì sao chủ nghĩa tư bản điều chỉnh không tránh được khủng hoảng chu kỳ?
14:2' 10/10/2008
 
  
Tại khoá họp thường niên lần thứ 63 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 23-9-2008. Tổng thống Pháp Ni-cô-la Xác-cô-di (Nicolas Sarkozy), Chủ tịch luân phiên của Liên minh châu Âu (EU) đã kêu gọi các nhà lãnh đạo chủ chốt của thế giới tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh vào tháng 11 tới để rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, đồng thời tái xây dựng “một chủ nghĩa tư bản điều chỉnh”.
Vấn đề đặt ra là, vì sao lại phải tái xây dựng chủ nghĩa tư bản điều chỉnh? Phải chăng nó đã hoàn toàn không có khả năng tránh khỏi khủng hoảng chu kỳ?
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa xã hội rơi vào khủng hoảng, thoái trào, chủ nghĩa tư bản không những không “giãy chết” mà còn tiếp tục phát triển, thậm chí, còn có những bước phát triển ngoạn mục; những con rồng, con hổ về kinh tế như Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á, xuất hiện như là một minh chứng cho sự “vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản hiện đại, các nhà nghiên cứu lý luận và hoạch định chính sách của chủ nghĩa xã hội lúc đó không khỏi lúng túng khi luận quan điểm của V.I.Lê-nin:“chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”.
Các nhà lý luận tư sản khi đó đã đưa ra lý thuyết về chủ nghĩa tư bản hiện đại hay chủ nghĩa tư bản thích nghi, tự điều chỉnh... Đây là một bước tiến về nhận thức lý luận, tuy nhiên, người ta lại quá nhấn mạnh đến khả năng tự thích nghi, mà quên mất tính tự phát tư bản chủ nghĩa. Mặc dù, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc điều hành vĩ mô nền kinh tế, khiến cho cơ chế tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản có hiệu quả hơn nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ thị trường tài chính - địa ốc Mỹ hồi đầu năm nay, và hiện đang lan rộng ra toàn cầu đã chứng minh rằng, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã không thể tránh khỏi quy luật khủng hoảng kinh tế vốn có của nó mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã phát hiện từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Một câu hỏi lớn đã làm đau đầu các nhà lý luận tư sản rằng: vì sao các nước tư bản phát triển, đứng đầu là Mỹ, là nền kinh tế lớn nhất hành tinh, chiếm hơn 30% GDP thế giới lại không thể loại trừ,ngăn chặn, hạn chế được cuộc khủng hoảng đang diễn ra hiện nay? Trả lời câu hỏi này, có các ý kiến khác nhau, trong đó, có những nghiên cứu cho rằng: Chủ nghĩa tư bản điều chỉnh chỉ làm trầm trọng thêm tính chất của khủng hoảng kinh tế.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự dung hợp hay kết hợp sức mạnh của tổ chức độc quyền với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một cơ cấu thống nhất, trong đó, nhà nước đóng vai trò trung tâm điều chỉnh nền kinh tế, nhằm bảo vệ lợi ích tối đa cho các tổ chức độc quyền, duy trì và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thể hiện trên hai khía cạnh: thứ nhất, sự kết hợp giữa hai thế lực, kinh tế và chính trị, tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước thành một cơ cấu thống nhất trong đó nhà nước có chức năng bảo vệ cho các tổ chức độc quyền; thứ hai, nhà nước có vai trò là trung tâm điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Trải qua các giai đoạn phát triển quan trọng gắn với các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là những năm 80 của thế kỷ XX, với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới đã dẫn đến toàn cầu hoá về kinh tế, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đã chuyển hoá thành chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia. Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các công ty độc quyền xuyên quốc gia, siêu quốc gia là lực lượng chủ đạo chi phối thị trường thế giới. Người ta đã thống kê được rằng, khoảng hơn 200 công ty khổng lồ xuyên quốc gia đang chiếm giữ 30% GDP của thế giới, thu hút 70% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chiếm 70% mậu dịch quốc tế và trên 70% các hợp đồng chuyển nhượng kỹ thuật - công nghệ của thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá với độ sâu và diện rộng như hiện nay, khi một trong các công ty xuyên quốc gia lâm vào khủng hoảng thì tính hệ thống của nó cũng có nguy cơ bị phá vỡ và sự tác động gây khủng hoảng toàn cầu là khó tránh khỏi. Sự khủng hoảng của các “đại gia” tài chính ở Mỹ vừa qua đã nói lên điều đó.
Đảm nhận vai trò điều hành vĩ mô nền kinh tế của nhà nước tư bản chủ nghĩa. Ngày nay nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã có luật chống độc quyền nhằm khuyến khích cạnh tranh bình đẳng, trên cơ sở luật pháp như là một động lực của sự phát triển. Tuy nhiên, quy luật tự do cạnh tranh vẫn tiếp tục phát huy tác dụng, nhất là trong lĩnh vực cơ cấu kinh tế (ngành, vùng, lĩnh vực), đặc biệt là thị trường chứng khoán - thị trường phái sinh của nền kinh tế. Tính chất “ảo” của thị trường chứng khoán đã che lấp đi những tín hiệu thực của nền kinh tế, làm cho những dấu hiệu tiền khủng hoảng của nền kinh tế không biểu hiện rõ nét. Vì thế, vai trò điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế của nhà nước tư bản chủ nghĩa đã bị “chủ quan hoá”, để khi nhận ra thì đã quá muộn. Điều đó giải thích vì sao giải pháp bơm 168 tỉ USD của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và 700 tỉ USD của Chính phủ Mỹ vừa qua, theo dự báo của các nhà nghiên cứu, sẽ không mấy hiệu quả.
Thực tiễn nhiều năm qua đã cho thấy, vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của các nhà nước tư bản chủ nghĩa chỉ có thể làm giảm độ sâu, biên độ của các cuộc khủng hoảng, kéo dài thời gian giữa các chu kỳ khủng hoảng. Nếu như trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh (thế kỷ XVIII, XIX), thời gian giữa các cuộc khủng hoảng chu kỳ thường là 8-10 năm, còn đến giai đoạn thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, khoảng cách giữa các chu kỳ khủng hoảng đã được kéo dãn ra, và tính chất không đều của các cuộc khủng hoảng cũng xuất hiện. Cuộc khủng hoảng đầu tiên xảy ra vào năm 1825-1828; tiếp đó là các cuộc khủng khoảng với quy mô, tính chất có sự khác nhau: năm 1914-1918; năm 1929-1933; năm 1939-1945; và các cuộc khủng hoảng kinh tế gần nhất là trước cuối thế kỷ XX: năm 1974-1975 và năm 1980-1982...
Cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ lần đầu tiên của thế kỷ XXI có sự khác biệt so với các cuộc khủng hoảng trước đây cả về quy mô và tính chất. Do tính chất thời đại nên các cuộc khủng hoảng kinh tế ngày nay thường không gắn liền với chiến tranh đế quốc để phân chia lại thị trường thế giới như trước đây. Tuy nhiên, những biểu hiện mới của khủng hoảng thường gắn liền với khủng hoảng tài chính, dầu mỏ, nguyên liệu và cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu đầu tư, xuất - nhập khẩu... Điều đó cho thấy, sự tích luỹ của các nhân tố tiền khủng khoảng lại là tiền đề cho các cuộc khủng hoảng lớn hơn. Như vậy, chủ nghĩa tư bản điều chỉnh với tham vọng loại trừ quy luật khủng hoảng kinh tế chu kỳ là điều không thể thành hiện thực.
Chúng ta không phủ nhận, trong các thập kỷ vừa qua chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có sự thích nghi đáng kể nên đã kéo dài sự tồn tại và phát triển của mình, nhà nước tư bản chủ nghĩa đã có những chính sách, những giải pháp để hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường nói chung, bao gồm cả thị trường chứng khoán cũng chỉ là giảm bớt độ sâu biên độ của chu kỳ khủng hoảng chứ không thể khắc phục hoàn toàn tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế. Cần thiết phải nhắc lại rằng, C.Mác trong khi đánh giá rất cao vai trò của con người, vai trò nhân tố chủ quan, “con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới”, nhưng C.Mác cũng cho rằng có điều mà con người không thể làm được, đó là: xoá đi một quy luật này hay tạo ra một quy luật khác. Con người dù có thiên tài đến đâu cũng chỉ có thể vận dụng quy luật bằng cách tác động vào những yếu tố, điều kiện, môi trường mà quy luật đang vận động theo hướng có lợi cho mình mà thôi. Điều này rất quan trọng khi xem xét nguyên nhân và tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, trong đó có giải pháp cắt giảm lãi suất ngân hàng, bơm tiền vào lưu thông, hay liệu pháp “sốc” 700 tỉ USD đang được thực hiện ở Mỹ và một số nước Tây Âu.
Khó có thể phủ nhận rằng chủ nghĩa xã hội vẫn là giải pháp tối ưu để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế chu kỳ. Đây là vấn đề mà cả nhân loại, nhất là các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách phát triển của các quốc gia cần phải quan tâm./.
Nguyễn Nhâm
Nguồn: Tạp chí Cộng sản
YÊU NƯỚC THÌ PHẢI THƯƠNG NHÂN DÂN.

YÊU NƯỚC THÌ PHẢI THƯƠNG NHÂN DÂN.


Người Việt có yêu nước không? Ấy, bạn khoan vội nhảy nhổm lên vì câu hỏi có vẻ “phạm thượng” này. Dù đã được khắc ghi vào trí não từ bé và tin như đinh đóng cột rằng, trải qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, từng bao phen đánh thắng mấy đế quốc to nên nhân dân ta luôn luôn có truyền thống yêu nước nồng nàn... thì bạn cũng hãy thử một lần bình tâm suy nghĩ về những điều có vẻ trái tai dưới đây.

Tôi có người bạn vong niên là giáo viên có thâm niên hàng chục năm dạy học và luôn có ý thức truyền ngọn lửa yêu nước cho học trò của mình. Cho đến một ngày, một người bạn nước ngoài trong lúc tâm tình nêu ra một nhận xét làm ông choáng váng: “Tôi thấy người Việt Nam các ông không yêu nước. Yêu nước sao người Việt lại đi làm hại lẫn nhau?”. Rồi người bạn nước ngoài ấy dẫn ra hàng loạt ví dụ về việc người Việt đang hại người Việt như thế nào.
Từ việc người nông dân trồng rau chia hai, luống để nhà mình ăn, không phun thuốc trừ sâu và những luống khác để bán, tha hồ phun thuốc cho rau có vẻ xanh tốt, mặc cho đồng bào mình mua về ăn và bị đầu độc đến người trồng cây ăn trái thoải mái phun thuốc trừ sâu cho cây, mặc cho người tiêu dùng là đồng bào của mình ăn trái cây phải nuốt cả chất độc vào người; người chăn nuôi vô tư sử dụng thuốc tăng trọng, chất tạo nạc và những thứ chất cấm khác, trước khi giết mổ thì bơm nước, chích thuốc an thần cho heo bò, bất chấp tác hại đến sức khỏe đồng bào mình ra sao.
Từ việc người buôn bán, vì đồng lời, bất chấp lương tri, nhập hàng độc hại từ nước ngoài về bán, giết lần giết mòn đồng bào mình đến việc người công nhân, để trả thù ông chủ, tìm cách ăn cắp linh kiện trong nhà máy hay lén bỏ đinh vào thủy sản xuất khẩu, làm hại cả ông chủ lẫn nền kinh tế đất nước. Từ những quan chức nhà nước được cử đi nước ngoài làm nhiệm vụ quảng bá hình ảnh đất nước nhưng không lo làm tròn trách nhiệm của mình, làm vinh danh đất nước mà chỉ lo vun xén, dùng thời gian tha hồ mua sắm, mặc cho hình ảnh đất nước bị tổn hại ra sao; đến những quan chức hoặc chỉ lo khai thác chiếc ghế của mình để làm giàu cho bản thân và phe cánh, mặc cho dân tình đói khổ hoặc chạy theo thành tích, những thứ phô trương hình thức, viển vông mà quên đi cuộc sống còn lầm than của người dân.
Còn nhiều, rất nhiều những ví dụ tương tự. Hàng ngày hàng giờ, người ta vẫn nói yêu nước, hô hào yêu nước, nhưng không ít người, kể cả cán bộ có chức quyền lại đang bỏ quên hoặc làm hại đồng bào mình, nòi giống mình. Yêu nước không đi đôi với thương nòi, thương yêu chính đồng bào mình. 

Bởi từ xưa cha ông ta đã nói: “Yêu nước, thương nòi”. Hai vế luôn đi liền với nhau. Yêu nước phải đi liền, không tách rời với thương nòi, thương yêu đồng bào mình, làm gì cũng không để hại cho đồng bào mình. Đó là đạo lý từ ngàn xưa của dân tộc. Cũng vậy, trong “Năm điều Bác Hồ dạy thiếu nhi”, điều đầu tiên cũng nói: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”. Đó là điều hoàn toàn dễ hiểu, vì nước, Tổ quốc – ngoài lãnh thổ ra – thì quan trọng nhất là con người, là nhân dân, là đồng bào, là những người cùng nòi giống, cùng dòng máu đang làm chủ mảnh đất này.
Chân lý đơn giản như vậy nhưng lại rất thường bị quên lãng khi người ta chỉ thường hay nhắc nhở, nhấn mạnh lòng yêu nước qua sự hy sinh trong chiến tranh, lúc đối mặt với quân thù, khi sự sống và cái chết chỉ cách nhau cái chớp mắt mà không nhấn mạnh, đề cao đủ việc phải sống ra sao cho hợp đạo lý với chính đồng bào của mình ngay trong thời bình, ngay trong cuộc sống thường ngày. Chết vì Tổ quốc là cái chết vinh quang, ta thường được nhắc nhở như vậy. Nhưng hàng ngày, sống tử tế với đồng bào mình, không làm gì hại đến giống nòi, làm gì cũng nghĩ đến ảnh hưởng tới đồng bào mình, đất nước mình, điều đó không phải lúc nào cũng dễ dàng. Đứng trước sự lựa chọn hoặc làm lợi cho mình mà hại cho đồng bào mình hay ngược lại, dù thế nào cũng không làm bất cứ điều gì hại tới đồng bào mình, nó đòi hỏi người ta phải tính toán thiệt hơn và sự lựa chọn không làm gì hại tới đồng bào mình không hề dễ dàng và thua kém về mặt giá trị so với sự hy sinh ngoài trận tiền, dù đây là hành động âm thầm, không được vinh quang theo nghĩa được nhiều người biết đến và tụng ca.
Chết vì Tổ quốc là cái chết vinh quang, ta thường được nhắc nhở như vậy. Nhưng hàng ngày, sống tử tế với đồng bào mình, không làm gì hại đến giống nòi, làm gì cũng nghĩ đến ảnh hưởng tới đồng bào mình, đất nước mình, điều đó không phải lúc nào cũng dễ dàng.
Trở lại với câu hỏi “Người Việt có yêu nước không?”. Có, người Việt có yêu nước, nhất là trong chiến tranh giành độc lập, trong chiến đấu với kẻ thù bên ngoài để gìn giữ hoặc giành lại chủ quyền đã mất. Nhưng mặt khác, nếu người Việt biết yêu nước bằng cách yêu thương đồng bào mình, yêu thương giống nòi hơn trong thời bình và tránh làm hại nhau thì đất nước có thể đã có nhiều cơ hội phát triển hơn. Yêu nước trong thời bình đòi hỏi những nội dung, những phẩm chất, những giá trị khác với thời chiến. Nó không đòi hỏi hy sinh mạng sống trong tích tắc nhưng lại đòi hỏi lòng yêu thương thực sự đồng bào, giống nòi, đất nước mình trong từng khoảnh khắc. Yêu nước trong thời bình cần nhấn mạnh vào nội hàm thương nòi, thương dân một cách cụ thể. Một quan chức không thể miệng nói yêu nước mà không biết đến cuộc sống còn lầm than của nhiều người dân, hoặc tệ hơn nữa, làm hại dân. Một người bình thường không thể miệng nói yêu nước mà làm hại đồng bào mình. 
Có lẽ chính vì đánh giá cao ý thức, nỗ lực, giá trị của từng con người trong việc mưu lợi cho đồng bào, cho đất nước qua từng hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày mà nhiều người đã hết sức đồng cảm và khâm phục cách suy nghĩ và phát biểu tưởng chừng đơn giản nhưng thật sâu sắc của cô gái Cần Thơ 19 tuổi, kình ngư Ánh Viên, khi cô nói sau khi đoạt huy chương vàng và phá kỷ lục 200m bướm ở đấu trường SEA Games: “Tôi khóc vì không hài lòng với chính mình, bởi bản thân tôi đã mắc một số lỗi không thể chấp nhận được. Tôi đã đạt sáu huy chương vàng và phá bảy kỷ lục SEA Games nhưng tôi sẽ không ngừng phấn đấu mỗi ngày. Khi tôi hài lòng với những gì mình đạt được, chính tôi đã là kẻ thất bại ngay lúc này, chứ không cần phải chờ tới ngày mai. Khi chuẩn bị thi đấu, tôi không nghĩ gì về những chiến thắng đã đạt được, tôi lao xuống nước và nỗ lực như mình chưa giành được gì”.
Giá mà người nào trong chúng ta cũng nghĩ và làm được như cô gái 19 tuổi này, lúc nào cũng thấy mình làm chưa đủ cho giống nòi, cho đất nước thì có lẽ đất nước không lo gì không có cơ hội phát triển.
Đoàn Khắc Xuyên
(*) Bài viết nằm trong chuyên đề "Độc lập, chuyện hôm qua và hôm nay" trên Người Đô Thị số 40 - Phát hành ngày 27.8.2015.
Nguồn: http://nguoidothi.vn/vn/news/nguoi-tre/loi-song/6542/yeu-nuoc-va-thuong-noi.ndt


TRÁI TIM ĐAN KÔ

Trái tim ĐanKô
Marxim Gorki

Thuở xưa, trên trái đất này, có một đám người sinh sống ở một khu vực nọ, xung quanh khu lều trại của họ ba bề là rừng rậm bao bọc, không thể len qua được, phía kia là thảo nguyên. Đó là những người vui vẻ, khỏe mạnh và dũng cảm. Nhưng rồi thời buổi khó khăn đã tới : có những bộ lạc khác không hiểu từ đâu xuất hiện, xua đuổi những người vẫn ở đây từ trước vào tít trong rừng sâu. Ở đấy chỉ có đầm lầy và bóng tối vì rừng đã lâu đời lắm rồi, cành lá quấn quít dày rậm đến nỗi không còn nhìn thấy bầu trời nữa, và tia sáng mặt trời phải khó khăn lắm mới lọt qua đám lá um tùm để soi rọi chút ít xuống đầm lầy. Nhưng khi những tia nắng chiếu xuống mặt nước đầm lầy thì mùi hôi thối bốc lên đến nỗi họ lăn ra chết, hết người này đến người khác. Đàn bà trẻ con trong bộ lạc khóc lóc, còn các ông bố thì nghĩ ngợi và buồn rầu. Cần phải ra khỏi khu rừng này, và muốn vậy chỉ có hai con đường : con đường thứ nhất là trở lại phía sau thì có những kẻ thù mạnh và hung dữ, con đường thứ hai là tiến lên phía trước thì ở đó là những cây khổng lồ, cành tôi khỏe, ôm chặt lấy nhau, rễ ngoằn ngoèo đâm sâu xuống đất bùn dính chắc của đầm lầy. Những thân cây trơ trơ như đá ấy ban ngày đứng sừng sững, im lìm trong ánh sáng lờ mờ, xám xịt, và tối đến, khi đốt lửa lên thì cây cối càng dịch sát lại bao quanh đoàn người. Đêm cũng như ngày, xung quanh đoàn người bao giờ cũng có một vòng bóng tối vững chắc chỉ chực nghiến bẹp họ, mà họ thì đã quen với thảo nguyên bao la. Khi gió đập các ngọn cây và cả khu rừng gào thét như hăm dọa và hát bài ca đưa đám họ thì cảnh tượng càng ghê rợn hơn. Dù sao họ vẫn là những người dũng cảm, và họ có thể chọi nhau một mất một còn với những kẻ đã có lần đánh bại họ, nhưng họ không thể chết trong chiến đấu được, vì họ còn có nhưng lời di chúc, nếu họ chết thì những lời di chúc sẽ mất theo. Bởi vậy, họ cứ ngồi đấy và suy nghĩ bao đêm ròng, giữa tiếng cây rừng xào xạc, trong hơi thối độc địa của đầm lầy. Họ ngồi đấy và ánh lửa tạo nên những bóng đen chập chờn nhảy nhót xung quanh họ trong một điệu vũ thầm lặng, mọi người đều có cảm giác như đấy không phải là những bóng đen nhảy múa, mà là ma quỷ của rừng và đầm lầy đang hân hoan đắc thắng … Họ vẫn ngồi đấy và nghĩ ngợi. Nhưng không có cái gì, cả công việc lẫn đàn bà, lại làm suy mòn thể xác và tâm hồn người ta bằng những ý nghĩ buồn rầu. Người ta suy yếu đi vì lo nghĩ … Nỗi khiếp sợ nảy nở trong bọn họ, làm tê liệt những cánh tay rắn chắc họ, đàn bà khóc lóc trước tử thi những người chết vì uế khí và khóc than cho số phận những người còn sống nhưng đã mất chí khí vì hoảng sợ, tiếng khóc của họ làm cho đoàn người hoang mang thêm. Trong rừng, người ta bắt đầu nghe thấy những câu nói hèn nhát, lúc đầu còn rụt rè, thì thầm, rồi càng về sau càng lớn tiếng hơn … Họ đã định đến nộp mình cho quân thù và dâng tự do của mình cho chúng. Vì kinh hoảng trước cái chết, không ai còn sợ sống nô lệ nữa … Nhưng đúng lúc đó, Đankô xuất hiện và một mình anh, anh cứu thoát cả đoàn người ".
Rõ ràng là bà cụ vẫn thường kể câu chuyện trái tim cháy của Đankô. Cụ nói như hát, và giọng nói xin xít, rè rè của cụ khiến tôi hình dung rõ mồn một tiếng ào ào của khu rừng có những con người bất hạnh, kiệt lực, chết dần vì hơi độc của đầm lầy …
"Đankô là một người trong bọn họ, một chàng trai trẻ đẹp. Những người đẹp bao giờ cũng can đảm. Và anh nói với các bạn anh như thế này :
-Nghĩ ngợi không thể hất bỏ được tảng đá trên con đường ta đi. Kẻ nào không mó tay vào việc thì chẳng làm nên công chuyện gì. Cứ lo nghĩ làm chi cho hao tâm tổn sức ? Hãy đứng lên, chúng ta sẽ đi sâu vào rừng và xuyên qua rừng, bởi vì rừng cũng có chỗ kết thúc, mọi cái trên đời đều có chỗ kết thúc ! Ta đi đi ! Nào ! Tiến bước ! …
Họ nhìn anh và thấy anh hơn hẳn tất cả bọn họ, vì trong mắt anh ngời lên bao nhiêu sức mạnh và nhiệt tình sôi nổi.
-Anh dẫn chúng tôi đi ! - Họ bảo anh.
Thế là anh dẫn họ đi .. "
Bà lão im lặng và nhìn ra thảo nguyên, ở đó bóng tối mỗi lúc một dày đặc lại. Những tia lửa tóe ra từ trái tim cháy của Đankô sáng bừng lên ở nơi nào phía xa, nom như những bông hoa xanh bay lượn trên không, chỉ nở ra trong giây lát.
"Đankô dẫn họ đi. Mọi người nhất loạt đi theo anh : họ tin anh. Đường đi thật khó khăn ! Rừng tối om, cứ bước một bước, đầm lầy lại há cái mõm tham lam hôi thối ra nuốt mất người, và cây cối sừng sững chặn đường như một bức thành kiên cố. Cành cây quấn quýt lấy nhau ; rễ bò lan khắp nơi như đàn rắn, và cứ mỗi bước đi, họ lại tốn bao nhiêu mồ hôi và máu. Họ đi lâu lắm … Rừng mỗi lúc một dày rậm, sức lực mỗi lúc một suy kiệt ! Họ bắt đầu oán trách Đankô, trách anh trẻ người non dạ, đưa họ đi vào chỗ vu vơ. Nhưng anh vẫn dẫn đầu đoàn người, hăng hái và tươi tỉnh.
Rồi một hôm, dông bão gầm thét trên rừng, cây cối ào ào ghê rợn. Trong rừng bỗng tối mù tối mịt, tưởng chừng như bao nhiêu đêm tối trên đời kể từ khi có rừng đến nay đều tụ cả lại. Những con người nhỏ bé đi giữa những cây lớn, trong tiếng sấm đáng sợ. Họ đi, còn những cây khổng lồ lắc lư, nghiến ken két và gào lên bài ca thịnh nộ. Tia chớp bay trên các ngọn cây, ánh lửa xanh lạnh lẽo rọi sáng mọi vật trong khoảng khắc và biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện, làm mọi người kinh sợ. Cây cối được ánh chớp lạnh lẽo rọi sáng, nom như những vật sống, dang rộng những cánh tay dài ngoằn ngoèo, đan thành một mạng lưới dày xung quanh đoàn người, cố ngăn chặn họ. Từ trong đám cành tối tăm, có cái gì đáng sợ, hắc ám, lạnh lẽo nhìn đám người đang đi. Đường đi gian nan, đoàn người mệt lả, mất tinh thần. Nhưng họ xấu hổ, không dám thú nhận sự yếu hèn của mình, vì thế họ trút căm hờn và giận dữ vào Đankô, con người dẫn đầu họ. Họ trách anh không biết dẫn dắt họ, thế đấy !
Họ dừng lại và giữa tiếng gầm gào đắc thắng của rừng, trong bóng tối run rẩy, những con người mệt mỏi và dữ tợn ấy bắt đầu kết tội Đankô.
-Mi là kẻ hèn mọn làm hại chúng tao, - họ bảo anh - Mi dẫn chúng tao đi và làm chúng tao kiệt lực, vì vậy mi phải chết !
-Các người bảo : "Dẫn chúng ta đi !" và tôi dẫn các người đi ! - Đankô hét lên, hiên ngang đứng trước mặt họ. - Tôi có gan dẫn đường và tôi dẫn các người đi ! Còn các người, các người đã làm gì để tự giúp mình ? Các người chỉ cắm cổ đi và không biết giữ sức để đi được lâu dài hơn ! Các người chỉ mải miết đi như đàn cừu !
Nhưng những lời đó làm họ càng điên tiết hơn.
-Mi phải chết ! Mi phải chết ! - Họ gầm lên.
Rừng cũng gầm lên, gầm mãi lên, hòa với tiếng hét của họ, và ánh chớp xé toang bóng tối thành từng mảnh. Đankô nhìn đám người mà anh đã ra công khó nhọc vì họ và thấy rằng họ là những con thú. Nhiều người xúm quanh anh, nhưng trên mặt họ không có chút gì là cao thượng và không thể mong họ tha thứ cho anh. Thế là trong tim anh cũng bùng lên niềm phẫn nộ sục sôi, nhưng lòng thương người đã dập tắt ngọn lửa uất hận ấy. Anh yêu họ và nghĩ rằng không có anh, có lẽ họ chết mất. Trong tim anh bừng lên ngọn lửa nhiệt thành thiết tha muốn cứu thoát họ, đưa họ lên con đường dễ dàng, và những tia lửa của niềm mong muốn mãnh liệt ấy lóe lên trong mắt anh … Còn họ thấy thế, lại tưởng anh nổi khùng nên mắt mới sáng quắc như vậy, họ liền giữ miếng như những con chó sói, chờ xem anh đánh lại họ, họ tiến sát đến, vây chặt lấy anh để dễ bề bắt và giết anh. Anh đã hiểu ý nghĩ của họ, do đó ngọn lửa trong trái tim anh càng cháy rực hơn nữa, vì ý nghĩ của họ làm anh buồn rầu.
Rừng vẫn hát bài ca thê lương, sấm chớp đùng đùng, mưa như trút nước.
-Ta sẽ làm gì cho mọi người đây ?! - Đankô gào to hơn sấm.
Bỗng nhiên, anh đưa hai tay lên xé toang lồng ngực, dứt trái tim ra và giơ cao trên đầu.
Trái tim cháy sáng rực như mặt trời, sáng hơn mặt trời, và cả khu rừng im lặng, sáng lên dưới ngọn đuốc của lòng thương yêu vĩ đại đối với mọi người. Trước ánh sáng của trái tim Đankô, bóng tối tan tác và run lẩy bẩy, nhào xuống cái mõm hôi thối của đầm lầy nơi rừng sâu núi thắm. Đoàn người sửng sốt, đứng trơ ra như phỗng.
-Đi thôi ! - Đankô thét lớn và xông lên phía trước, về chỗ của mình, tay giơ cao trái tim sáng rực, soi đường cho mọi người.
Họ xông lên theo anh, mê man như bị chài. Rừng lại bắt đầu ồn ào, ngạc nhiên lắc lư các ngọn cây, nhưng tiếng ồn ào của rừng bị tiếng chân người rầm rập át đi. Họ chạy nhanh và mạnh bạo, cảnh tượng kỳ diệu của trái tim cháy lôi cuốn họ. Bây giờ vẫn có người chết, nhưng họ chết không than vãn và khóc lóc. Còn Đankô vẫn luôn luôn đi ở phía trước và trái tim anh vẫn cháy bùng bùng, sáng rực !
Bỗng nhiên, rừng giãn ra nhường lối cho anh, giãn ra và lùi lại ở phía sau, dày đặc và câm lặng, còn Đankô và tất cả đám người ấy lập tức chìm vào cái biển ánh sáng mặt trời và không khí trong lành được nước mưa gột sạch. Dông bão ở đằng kia, sau lưng họ, trên khu rừng, còn ở đây là mắt trời rực rỡ, thảo nguyên thở đều đều, cỏ ngời sáng vì những giọt mưa chói lọi như kim cương và sông lấp loáng ánh vàng … Trời đã về chiều và dưới ánh hoàng hôn, sông đỏ như máu nóng hổi phụt ra từ bộ ngực bị xé rách của Đankô.
Chàng Đankô can trường và kiêu hãnh đưa mắt nhìn thảo nguyên bao la trước mặt, sung sướng nhìn khoảng đất tự do và bật lên tiếng cười tự hào. Rồi anh gục xuống và chết.
Đoàn người vui sướng và tràn đầy hy vọng, không nhận thấy Đankô đã chết và không thấy trái tim can đảm của anh vẫn cháy bừng bừng cạnh xác anh. Chỉ có một người vốn tính cẩn thận nhận thấy điều đó và sợ xảy ra chuyện gì không hay, liền dẫm chân lên trái tim kiêu hãnh ấy … Trái tim tóe ra một loạt tia sáng, rồi tắt ngấm … "

Trích BÀ LÃO IDECGHIN (Marxim Gorki

Bạn trẻ 'đu dây điện, ở trên mây' khi phỏng vấn xin việc?

Bạn trẻ 'đu dây điện, ở trên mây' khi phỏng vấn xin việc?


09/02/2017 16:20 GMT+7
TTO - "99/100 em đi phỏng vấn đều chém câu "Em muốn làm việc trong một môi trường chuyên nghiệp!". 
Bạn trẻ 'đu dây điện, ở trên mây' khi phỏng vấn xin việc?
Nên tìm hiểu về môi trường mình làm việc, không nên chỉ lo lợi ích bản thân khi tham gia phỏng vấn - Ảnh tư liệu
​Chính vì sự nôn nóng mà nhiều bạn trẻ không tạo được ấn tượng ngay từ vòng đầu phỏng vấn, nhất là việc chỉ đưa ra điều kiện bản thân nhưng lại thiếu hiểu biết về công ty ứng tuyển.
Có hay không bạn trẻ "đu dây điện"?
Trong một bài chia sẻ trên mạng gây sốt mới đây, tác giả Thùy Vân - một chuyên viên truyền thông - thuật lại rằng "99/100 em đi phỏng vấn đều chém câu "Em muốn làm việc trong một môi trường chuyên nghiệp!".
"Nghe thì hay, nhưng khi đi vào thực tế nó lại trở thành điều vô cùng khôi hài, nó phản ánh tính hài hước không giới hạn của các em" - Thùy Vân viết trên facebook.
Cô cho rằng "môi trường chuyên nghiệp" theo tưởng tượng của các bạn trẻ (công ty lớn, văn phòng đẹp, lương cao, thưởng đều, nhân viên ăn mặc đẹp, thơm tho, sếp hiền như bà tiên, ông bụt...), trong khi thực tế "môi trường làm việc chuyên nghiệp" - theo Thùy Vân - thì phải là có Quy trình chuyên nghiệp (nhân viên cần biết công việc cần làm bắt đầu từ đâu, kết thúc thế nào, phối hợp với ai, trong bao lâu phải hoàn thành); Chính sách minh bạch (thưởng phạt phân minh); Con người chuyên nghiệp (việc đã giao thì phải hoàn thành)...
Thùy Vân cho rằng "đi phỏng vấn, thay vì nói "em muốn làm việc trong một môi trường chuyên nghiêp", hãy tự hỏi "mình đã chuyên nghiệp đủ với môi trường đó hay chưa".
Bảo Minh - một quản lí truyền thông - cho rằng những quan điểm của Thùy Vân là thiếu cơ sở và không thông cảm cho giới trẻ. Bảo Minh viết: “Số bạn trẻ ảo tưởng không phải là không có nhưng số doanh nhân ảo tưởng cũng nhiều không kém. Tôi đã trải qua các công ty và ở công ty nào tôi cũng nhận thấy rằng mỗi khi tuyển người họ đều tự cho mình là môi trường chuyên nghiệp.
Với các em mới ra trường kinh nghiệm còn non và họ đòi một môi trường chuyên nghiệp thì tôi nghĩ chúng ta cũng không nên cười cợt và khinh khi. Nếu một người đi làm 5-10 năm với mức lương cao thì chả ai đòi hỏi câu đó, cứ trả đúng khả năng thì làm thôi”.
Cần hiểu rõ cái gì quan trọng
Trao đổi với Tuổi Trẻ, Thùy Vân giải thích: “Thông điệp được truyền tải không phải là “bạn chưa chuyên nghiệp nên bạn không có quyền đòi hỏi môi trường chuyên nghiệp”, mà phải là bạn mong muốn làm việc trong môi trường chuyên nghiệp, nhưng khi được yêu cầu làm việc một cách chuyên nghiệp (đúng quy trình, đúng tiến độ…) thì bạn không làm”.
Thùy Vân góp ý rằng để giới trẻ không vấp phải những thiếu sót trong quá trình xin việc, cần phải: “Ứng viên ngoài kiến thức chuyên môn cần xác định thái độ nghiêm túc cho vị trí công việc mình ứng tuyển và sẽ làm việc trong tương lai. Điều này khác với "kỹ năng trả lời phỏng vấn", bởi nó không phải việc bạn có "đối phó" được với nhà tuyển dụng hay không, mà là bạn sẽ cho nhà tuyển dụng thấy mình thực sự phù hợp và mong muốn gắn bó với vị trí tuyển dụng như thế nào”.
Chị Thanh Định - người có kinh nghiệm tuyển lựa nhân sự nhiều năng cho công ty Uniiik Saigon - cho hay: “Hầu hết những bạn trẻ, người mới ra trường đều muốn tìm một công việc ổn định. Tuy nhiên, cũng chính vì sự nôn nóng mà họ không tạo được ấn tượng ngay từ vòng đầu phỏng vấn. Nhất là việc chỉ đưa ra điều kiện bản thân nhưng lại thiếu hiểu biết về công ty ứng tuyển.
Hỏi đúng cách sẽ giúp các bạn trẻ hiểu hơn về công ty, tổ chức mình đang làm. Đây là cách để chứng tỏ ứng viên có hiểu biết, có quan tâm đến công việc, không phải là người thụ động. Ứng  viên không nên im lặng mà hãy tận dụng cơ hội để hỏi ngược lại người phỏng vấn”.
TRIỆU DỦ

NÊN ĐỌC THÊM CÁC BÌNH LUẬN Ở DƯỚI BÀI BÁO THEO LINK

Popular Posts

Popular Posts